Tin mới
Trong khi tiền nhiệm F1 huyền thoại làm mọi thứ tối giản hợp lý tới mức hoàn hảo, McLaren W1 phức tạp hoá tới mức cùng cực nhưng...
Mẫu hypercar đầu bảng thứ 3 của McLaren - W1 đã tái định nghĩa công nghệ của hãng bằng gói khí động học phức tạp và hệ thống hybrid đầu bảng - triết lý đối lập với người tiền nhiệm huyền thoại của nó.
Dù đã được ra mắt từ 32 năm về trước nhưng tới tận hiện tại, McLaren F1 vẫn là một huyền thoại. Đúng, nó đã được ứng dụng nhiều giải pháp kỹ thuật tiên phong vào thời kỳ đó, nhưng điều khiến F1 vĩnh viễn đi vào lịch sử như một tượng đài là vì mọi thứ đều được thiên tài Gordon Murray thiết kế một cách tối giản nhưng tối ưu về công năng. Đứng bên cạnh nó, người hậu duệ mới nhất McLaren W1 đối lập bởi sự phức tạp, nhưng có vẻ như những khách hàng của hãng thích điều này khi hiện 399 chiếc mà McLaren dự định sản xuất đều đã có người đặt cọc.
Trái tim của nó là hệ động lực hybrid V8 hoàn toàn mới với tổng công suất hệ thống là 1.258 mã lực. Động cơ V8 tăng áp kép 4.0 lít tự sản sinh công suất 915 mã lực, được hỗ trợ và tiếp sức bởi thứ mà McLaren gọi là 'E-module' truyền thêm 342 mã lực tới bánh sau (và W1 chỉ dẫn động cầu sau RWD, điều này rất quan trọng). Với trọng lượng khô được trích dẫn là 1.399kg, tỷ lệ công suất trên trọng lượng là 899 mã lực/tấn. (Cũng quan trọng, cũng như đáng kinh ngạc.)
Sau đây là một vài số liệu trước khi chúng ta đi sâu hơn. Tốc độ tối đa được giới hạn điện tử ở mức 350km/h. McLaren W1 có thể tăng tốc lên 100km/h trong 2,7 giây, 200km/h trong 5,8 giây và 300km/h trong "dưới 12,7 giây". Để hiểu rõ hơn, điều đó khiến nó tăng tốc nhanh hơn Speedtail thuôn mượt hơn rất nhiều. Trong khi đó nếu xét về thời gian hoàn thành mỗi vòng đua, W1 nhanh hơn 3 giây tại đường thử Nardo của Ý so với chiếc Senna vốn nổi tiếng bởi hiệu năng khí động học cùng cực tới mức hy sinh cả thiết kế đẹp mắt.
Cốt lõi của W1 là bộ khung liền khối Aerocell mới, có hình dạng hoàn toàn được quyết định bởi các mục tiêu khí động học cao ngất ngưởng của McLaren. Nó được làm từ sợi carbon pre-preg - nghĩa là mỗi tấm sợi carbon gia cường đã được tẩm sẵn keo epoxy rồi sau đó xử lý bằng các cách như ép áp lực, nhiệt độ cao vào khuôn... Đây là dạng sản xuất composite tối ưu về mặt kỹ thuật, thường dành riêng cho xe đua thể thao cao cấp. Nhẹ, độ cứng về mặt cấu trúc và độ đồng đều về lớp hoàn thiện là những lợi ích chính của carbon pre-preg.
Khung nôi nguyên khối có bề mặt khí động học chỉ có thể thực hiện được bằng cách nâng sàn, điều này giúp nâng cao vị trí để chân. Ghế ngồi của W1 được tích hợp vào khung liền khối, giúp giảm chiều dài cơ sở 70mm, cho phép tiết kiệm trọng lượng hơn nữa. Ferrari đã làm điều đó trên LaFerrari và Daytona SP3. Nó cũng mang lại cho W1 một loại vị trí lái khác với tiêu chuẩn của McLaren.
Như một hệ quả, thiết kế W1 bị chi phối bởi tính khí động học cực kỳ phức tạp của nó. McLaren cho biết gói khí động học của chiếc xe mới là nền tảng tiên tiến nhất mà công ty từng phát triển cho một chiếc xe đường trường. Vì mục đích đó, họ sử dụng hiệu ứng mặt đất toàn phần. Một bước tiến lớn, W1 chỉ là chiếc xe dân dụng hợp pháp thứ hai làm được điều này, chiếc còn lại là Aston Martin Valkyrie . Đây là một điều cực kỳ khó khăn để thực hiện trong một chiếc xe mà McLaren mô tả là phù hợp cho mọi điều kiện sử dụng, và W1 thực hiện được điều đó bằng cách có hai chế độ chính, Đường trường và Đua.
Ở chế độ đua, chiều cao xe giảm 37mm ở phía trước và 17mm ở phía sau, một hệ thống nâng thông minh làm cứng hệ thống treo và tính năng khí động học chủ động của W1 được kích hoạt. Nó có một cánh gió dưới trước cực kỳ tinh xảo mà McLaren cho biết mang lại mức hiệu suất tương tự như cánh sau trên hầu hết các siêu xe. Nó sử dụng động cơ điện để thay đổi cấu hình ở chế độ Đua với một phần trung tâm dẫn không khí xuống mũi đến một sống xe lấy cảm hứng từ F1, trong khi các phần bên tạo ra lực ép xuống phía trước. Lực này sẽ giảm dần khi phanh để làm mát nhiều hơn, cũng như di chuyển sự cân bằng khí động học về phía sau.
Tuy nhiên cánh gió sau còn phức tạp hơn thế, được gọi là McLaren Active Long Tail. Nó kéo dài về phía sau tới 300mm qua một cung tròn 180°, vượt xa mép thân xe W1. Nó cũng được hỗ trợ bởi một bộ chuyển hướng luồng khí gắn trên mái giúp giữ cho không khí kết nối với sàn sau và cánh gió. Ở chế độ Đua, hiệu ứng mặt đất tạo ra lực ép xuống lên tới 350kg ở phía trước và 650kg ở phía sau để đạt được lực nén thân xe tối đa khi vào cua tốc độ cao.
Bốn động cơ điện di chuyển đuôi dài lên hoặc xuống và thay đổi góc của nó, và nó cũng hoạt động như một thiết bị giảm lực cản không khí (DRS) lẫn phanh bằng không khí. Đây là một trong nhiều thành phần trên W1 mà McLaren đã được cấp bằng sáng chế. Các thành phần khí động học chủ động liên tục điều chỉnh theo các đầu vào lái, ga và phanh của người lái.
Còn nhiều hơn thế nữa. Luồng khí dưới gầm xe gặp bộ khuếch tán sau có cấu trúc, được thiết kế để bao bọc chặt chẽ hệ động lực và được làm bằng thứ gọi là Sợi Carbon Mô đun Trung gian (IMCF). Nó thậm chí còn có độ bền cao hơn và chịu nhiệt tốt hơn so với các vật liệu tổng hợp được sử dụng ở những nơi khác, đủ mạnh để loại bỏ nhu cầu về thanh giằng, điều này có nghĩa là bộ khuếch tán có thể lớn hơn. Nó cũng hoạt động như một cấu trúc chống va chạm phía sau.
Tất cả đều cực kỳ thông minh, rất phức tạp và gần như không thể giải thích rõ ràng trong vài đoạn văn. Nhưng điều quan trọng cần nhớ là trên W1, tâm áp suất khí động học càng gần càng tốt với trọng tâm của xe trong mọi điều kiện, thúc đẩy mức độ ổn định và cân bằng tổng thể mà ít xe nào từng đạt được. Và, McLaren nói, hiệu năng khí động học không bị ảnh hưởng mặc dù phải thực hiện các vai trò rất khác nhau trên đường phố và đường đua.
“Cơ hội để tạo ra những chiếc xe như thế này khá hiếm”, Marcus Waite, giám đốc hiệu suất và thuộc tính xe tại McLaren Automotive cho biết. “Sự tương tác giữa cánh sau và bộ khuếch tán cực kỳ thông minh. Khi cánh sau di chuyển về phía sau, nó sẽ củng cố thêm hiệu năng của bộ khuếch tán đến mức bạn có thể gọi nó là phần mở rộng bộ khuếch tán. Cánh sau giúp hút nhiều không khí hơn ra khỏi xe để đạt được hiệu ứng mặt đất. Điều đó phụ thuộc vào khả năng tăng tốc không khí bên dưới xe nhanh nhất có thể và sau đó mở rộng ra ngoài”.
Ông tiếp tục: “Nhưng nó là cộng sinh, vì bộ khuếch tán cũng giúp cánh sau. Nó nằm trên mặt đường chứ không phải thân xe, nghĩa là nó không cản trở luồng không khí thoát ra từ khoang động cơ. Khe hở và cách nó được định hình là di sản đua xe thuần túy. Nó thực sự tác động đến gầm xe. Và hiệu ứng mặt đất là lực ép xuống với lực cản tự do.”
Điều này khiến W1 tiên tiến hơn và hiệu quả hơn về mặt khí động học so với kỷ nguyên xe F1 hiện tại. “Nếu có thể, họ sẽ làm điều này. Đây là giải pháp tốt nhất, đặc biệt là vào thời điểm bạn nhấn phanh ở cuối đường thẳng. Những người (kỹ sư) F1 sẽ thích mức độ tự do này. Họ muốn có một cánh gần bộ khuếch tán và có thể gia cố nó theo cách này. Một cánh lớn như vậy mà họ có thể di chuyển trở lại.” - Waite tự hào.
Sau đó là cửa của W1. McLaren trước đây ưa chuộng cửa mở cánh bướm nhưng chiếc xe mới lại có cửa cánh chim hải âu "Gullwing Door". Bởi vì nó hỗ trợ luồng không khí từ vòm bánh xe phía trước vào bộ tản nhiệt nhiệt độ cao và cung cấp thêm 100mm không gian làm mát, do đó bộ tản nhiệt không cần phải quá lớn. Cửa cánh chim cũng giúp ra vào dễ dàng hơn, hữu ích khi xét đến chỗ để chân được nâng lên đáng kể của W1. Chúng là một trong những điểm nổi bật trong một chiếc xe có ngôn ngữ thiết kế được cho là ít cực đoan hơn so với thứ đã định hình nên người tiền nhiệm P1 của nó.
Phần đầu xe được thiết kế phục vụ hoàn toàn cho tính khí động học, mặc dù nó trở nên thú vị hơn khi bạn nhìn lâu hơn. Có những cấu trúc khí động học bằng sợi carbon có thể nhìn thấy và các thành phần hệ thống treo lộ ra. Hai bên thân xe các cửa hút gió và ống dẫn tham gia vào một ma trận làm mát và khí động học đa chiều. Thiết kế thuôn mượt đẹp mắt khó có thể giữ được với các vây và hốc này, nhưng W1 ít cực đoan hơn Senna. mặc dù vậy, nó cũng trông hơi giống một chiếc 750S được độ lại.
Động cơ hoàn toàn mới với mã MHP-8 đã được phát triển trong 4 năm và quan trọng là được hình thành để làm tâm điểm của hệ thống hybrid. Mọi thứ trên W1 đều được tích hợp hoàn toàn. Động cơ 3988cc có khối động cơ, đầu culass và piston nhẹ, sử dụng hệ thống phun trực tiếp 350bar và hệ thống phun nhiên liệu cổng. Nó tràn ngập các chi tiết kỹ thuật cao cấp; có các nòng xi-lanh được phủ lớp phun plasma, hệ thống van sử dụng cò dạng ngón tay có lớp phủ carbon giống kim cương để giảm ma sát và có một bộ giảm chấn nhớt bên trong cho trục khuỷu.
Nó đạt tốc độ 9.200 vòng/phút, cao hơn bất kỳ động cơ McLaren nào trước đây, với mô-men xoắn cực đại riêng là 900Nm. Hệ thống xả có ống xả hình ống với các ống dẫn có chiều dài bằng nhau để tạo ra tác động âm thanh tối đa khi tới tua máy cực đại. Động cơ được đặt nghiêng trong khung gầm 3 độ để chứa bộ khuếch tán phía sau nêu trên.
Hệ thống điện bao gồm một mô-tơ điện từ thông hướng tâm tương tự như loại được sử dụng trong F1 có tua 24.000 vòng/phút và chỉ nặng 20kg. Nó được ghép nối với một bộ điều khiển động cơ và được cung cấp năng lượng bởi một pin 1,384kWh, có hệ thống làm mát có thể chịu được các phiên chạy đường đua dài. chúng được đặt trong một khoang bên trong khối động cơ liền khối của W1, được bảo vệ hoàn toàn nhưng được lắp đặt ở vị trí thấp nhất để giảm trọng tâm. Trạng thái sạc của pin luôn đủ để khởi động động cơ và bật chế độ lùi. McLaren cho biết tổng trọng lượng của thiết lập hybrid nhẹ hơn 40kg so với P1 trong khi cung cấp công suất lớn hơn 40%.
Hộp số là loại 8 cấp ly hợp kép hoàn toàn mới với khả năng chuyển số cao hơn nhiều so với các mẫu McLaren trước đây. Ngoài ra còn có một bộ vi sai thủy lực E hoàn toàn mới. Bằng cách nào đó, đây là một chiếc xe có thể xử lý được mô-men xoắn kết hợp 1.340Nm. Các tùy chọn hệ động lực ở chế độ Đua bao gồm cài đặt GP để có độ ổn định khi chạy đường dài hoặc Sprint cho tất cả 1.258 mã lực. Lốp Pirelli P Zero Trofeo RS tùy chỉnh là loại lắp tiêu chuẩn, 265/35 ở phía trước, 335/30 ở phía sau.
“Bí quyết là tạo ra một chiếc xe tuyệt vời trên đường trường rồi sau đó làm cho nó hoạt động trên đường đua,” Waite nói. “Bạn không thể thực sự làm ngược lại. Trong suốt quá trình phát triển, chúng tôi đã cố gắng tìm ra sự hài hòa và mạch lạc đó. Cách nó phát ra âm thanh, cách nó đem lại cảm nhận, tính tức thời của phản hồi. Tất nhiên là nó khác trên đường đua nhưng không giống như lái một chiếc xe hoàn toàn khác.”
Hệ thống treo của W1 cũng dựa nhiều vào F1. Ý tưởng của nó xuất phát từ FRIC - Hệ thống treo liên kết trước và sau', liên kết cả bốn góc của xe theo đường chéo để nâng cao hiệu năng khí động học hơn dưới gầm xe và giúp kiểm soát khi tốc độ và lực ép xuống tăng lên. Hệ thống này đã nhanh chóng bị liên đoàn đua ô tô Quốc tế FIA cấm vào năm 2014 và W1 đã xem xét lại ý tưởng đó. Hệ thống treo trước sử dụng thanh xoắn titan và liên kết ngang chủ động, trong khi thiết lập phía sau có thanh chữ Z với các liên kết thả chủ động để tối ưu hóa chuyển động thẳng đứng của xe. Các thanh chống và tay đòn phía trước được in 3D bằng titan.
Đây cũng là chiếc xe đua McLaren đầu tiên sử dụng thanh đòn đẩy được liên kết với bộ giảm chấn bên trong, một khía cạnh khác của quá trình tối ưu hóa khí động học tới mức cùng cực của chiếc xe. Cài đặt Comfort là cài đặt mặc định trên đường và sử dụng động cơ điện để đạt mô-men xoắn tức thời. Chế độ Sport tăng sự nhanh nhẹn và kết nối, với phản ứng bướm ga sắc nét hơn và chuyển số nhanh hơn. Chế độ Race là chế độ khởi động cấu hình khí động học tối ưu. Ngoài ra còn có chế độ Race+ đưa mọi thứ lên cực đại.
Hệ thống lái cũng hoàn toàn bằng thủy lực. Hệ thống phanh sử dụng thiết lập McLaren Carbon Ceramic-Racing+, với đĩa 390mm ở phía trước và phía sau, heo phanh 6 piston ở phía trước và 4 piston ở phía sau. Có các ống dẫn theo phong cách F1 và các phụ kiện bánh xe khí động học để tối ưu hóa khả năng làm mát. W1 có thể dừng lại từ tốc độ 200km/h trong 100m.
Bên trong, ghế ngồi cố định và sàn để chân được nâng cao mang đến cho W1 cảm giác chắc chắn theo phong cách đua xe. Bàn đạp, vô lăng đáy phẳng và các nút điều khiển chính di chuyển để phù hợp với người lái. Có một cánh cửa dạng nhô ra được thiết kế để tối đa hóa không gian nội thất, tấm che nắng bằng sợi carbon chỉ dày 3mm và W1 có trụ A hẹp nhất trong bất kỳ chiếc McLaren nào. Vô lăng hiện có hai nút - một nút cho chức năng Boost, nút còn lại để điều chỉnh khí động học.
Giống như những chiếc McLaren khác, chế độ hệ thống treo và hệ động lực có thể được điều chỉnh thông qua công tắc cần gạt ở phía trên của bảng đồng hồ. Hình dạng của bảng đồng hồ hoạt động như một bộ chuyển hướng luồng khí để hướng luồng khí mát hoặc ấm đến người lái. Có một màn hình cảm ứng độ phân giải cao ở trung tâm, tương tự như màn hình trên Artura và 750S. Ngoài ra còn có đủ không gian chứa đồ phía sau ghế ngồi cho một chiếc túi đựng đồ cuối tuần hoặc một cặp mũ bảo hiểm.
McLaren cũng tiên phong trong việc tạo ra một lớp trang trí nội thất có tên gọi là InnoKnit, một vật liệu bền vững siêu nhẹ có thể tùy chỉnh theo nhiều màu sắc và tích hợp âm thanh và ánh sáng xung quanh. Da và Alcantara vẫn có sẵn. McLaren Special Operations luôn sẵn sàng giúp khách hàng tiết kiệm nhiều tiền để đổi lấy các mặt hàng như hộp số hoàn thiện bằng sợi carbon.
Để sở hữu một chiếc W1, mỗi khách hàng sẽ phải bỏ ra 2 triệu Bảng Anh chưa gồm thuế. Nhưng điều đó không còn quan trọng vì toàn bộ số xe được sản xuất đã có chủ.